Giới trẻ Tổng giáo phận Hà Nội

40 Phố Nhà Chung - Hoàn Kiếm - Hà Nội

Giới trẻ Tổng giáo phận Hà Nội

40 Phố Nhà Chung - Hoàn Kiếm - Hà Nội

Người trẻ trưởng thành toàn diện và huấn luyện lương tâm: Đối thoại giữa Lương tâm và Huấn quyền

Hiện nay, vấn đề lương tâm là một chủ đề nóng. Lương tâm giữ một vị trí ưu tiên trong phân định và chọn lựa luân lý. Về cơ bản, lương tâm và Huấn quyền không đối kháng nhau vì cả hai cùng xuất phát từ Thiên Chúa, cùng tìm kiếm chân lý[1]. Thực tế, đôi khi cả hai dường như không chung tiếng nói. Trong Giáo hội vẫn có nhiều người nại đến tự do lương tâm cá nhân để không tuân phục giáo huấn Giáo hội về cấm ngừa thai nhân tạo, sống thử, phá thai, thụ thai nhân tạo, ly dị tái hôn, luyến ái đồng tính, chuyển giới, nghiên cứu tế bào gốc từ phôi người... Đây thật là một cơn bão xoáy về luân lý. Chúng ta được dạy rằng lương tâm có quyền tự do bất khả xâm phạm. Cùng lúc, chúng ta thường được dạy bảo các quy luật nhiều khi mang tính tuyệt đối đến mức chúng ta tự hỏi lương tâm đóng vai trò thế nào? Và, vài câu hỏi thực tế: chúng ta có hiểu đúng về lương tâm? Có lạm dụng tiếng nói lương tâm? Có hiểu đúng những gì Giáo hội dạy? Huấn quyền có dành chỗ đứng xứng đáng cho lương tâm trong đời sống?

Chính vì thế việc huấn luyện lương tâm trở thành một điều thiết yếu đối với việc đào tạo người trẻ trưởng thành toàn diện, cách riêng người linh mục để hướng dẫn mục vụ sau này. Các vị mục tử có trách nhiệm đào tạo lương tâm Kitô giáo của người trẻ, biết nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa trong mọi cảnh huống của đời sống và biết đáp trả theo những đòi hỏi xác thực của niềm tin Kitô giáo và của đức ái. Trong năm mục vụ Giáo hội Việt Nam hướng đến người trẻ trưởng thành toàn diện, bài viết tập trung vào việc đối thoại giữa Huấn quyền và lương tâm.

Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu bối cảnh trong đó Huấn quyền và lương tâm hoạt động và tương tác.

I. CẤU TRÚC SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO (GLHTCG)

Trong một bài trình bày bố cục của sách GLHTCG đăng trên tuần báo Osservatore Romano, ngày 06/01/1993, Đức giám mục Christoph von Schoenborn, thư ký ủy ban soạn thảo sách GLHTCG, lưu ý rằng bốn phần của sách nối kết với nhau thành một toàn thể, tựa như cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Một đàng là Thiên Chúa đến với con người qua nhiệm cục cứu độ, qua việc tạo dựng, cứu độ và thánh hóa (Kinh Tin kính, phần thứ nhất); Người ban cho nhân loại ơn thánh (các bí tích, phần thứ hai) cũng như những điều cần thiết khác để ta có thể sống đẹp lòng Người (cầu nguyện, phần thứ bốn). Đàng khác, con đường dẫn con người đến cùng Thiên Chúa không phải chỉ giới hạn trong phần thứ ba (Mười Điều Răn), nhưng bao gồm toàn bộ cuốn sách bốn phần. Đức Cha Von Schoenborn nhận định rằng cấu trúc này dựa theo sách Tổng Luận Thần Học của thánh Tôma Aquinô.

II. THẦN HỌC LUÂN LÝ THEO THÁNH TÔMA AQUINÔ

Có thể tóm Thần học Luân lý (THLL) của thánh Tôma vào ba điểm[2]:

1Luân lý dựa trên các nhân đức: ba nhân đức đối thần: tin, cậy, mến; và bốn nhân đức trụ: khôn ngoan, can đảm, tiết độ, công bằng.

Trước hết, điều trên có nghĩa là luân lý không phải chỉ gồm những điều tiêu cực ngăn cấm, nhưng còn gồm những điều tích cực, khuyến thiện. Hơn nữa, mỗi nhân đức được thánh Tôma gắn với một ơn thánh của Chúa Thánh Thần và một chân phúc của Bài Giảng Trên Núi, diễn tả rằng đời sống luân lý của Kitô hữu cần phải đạt đến sự trưởng thành siêu nhiên, khi con người biết để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn sống theo tinh thần mà Đức Kitô đã đề ra trong Bài Giảng Trên Núi.

Khi đặt đức tin đứng đầu trong các nhân đức, Thánh Tôma cho thấy rằng luân lý Kitô giáo có đặc nét riêng so với các nền luân lý khác bởi vì nó phản ánh một thực tại mới về con người, nhờ đức tin chúng ta biết được qua Thiên Chúa mạc khải. Theo vị thánh, chân lý nền tảng của luân lý là con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Điều đó giả thiết rằng con người cần phải luôn chiêm ngắm Thiên Chúa để tìm ra mẫu mực mà cư xử cho “giống” Người; mặt khác, con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc và triển nở toàn vẹn khi được kết hợp với Đấng đã tạo dựng nên mình và đồng thời cũng là cứu cánh đời mình.

2. Luân lý xây dựng trên hạnh phúc con người

Ngay từ đầu của phần luân lý, Thánh Tôma bàn đến hạnh phúc của con người. Con người tự bản năng khao khát hạnh phúc, và tìm cách để đạt tới hạnh phúc ấy. Các hành vi luân lý như những phương thế để tìm về hạnh phúc: cái gì dẫn tới hạnh phúc là tốt, cái gì làm cho ta mất hạnh phúc là xấu. Hiểu như vậy, xác định điều đúng sai, thiện ác không xuất phát từ một mệnh lệnh bên ngoài, nhưng là nằm trong bản chất nội tại của con người, tùy theo nó giúp cho con người đạt được cứu cánh của đời người hay không.

3. Vai trò của luật luân lý

Thánh Tôma đặt câu hỏi và cũng chính ngài trả lời. Làm sao biết được điều gì giúp con người đạt tới cứu cánh và điều nào thì không? Lý trí con người không luôn sáng suốt để nhận biết điều ấy! Chính vì vậy mà cần có người chỉ bảo cho nó: đó là luật. Luật như là phương thế mà Thiên Chúa dạy bảo con người. Khi trình bày về luật, Thánh Tôma đã theo sát diễn trình của mạc khải : trước tiên là mạc khải qua việc tạo dựng, nghĩa là Luật Tự Nhiên; kế đó là Luật Cũ (luật Môsê) và tiếp theo là Luật Mới (Luật Tin Mừng). Luật Mới hệ tại chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta. Luật Mới không viết trên bia đá, nhưng ghi khắc trong tâm khảm con người.

Luật Mới chính là điểm đặc trưng của luân lý Kitô giáo: Kitô hữu phải sống theo Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho ta nhờ công cuộc cứu độ của Đức Kitô, mà ta lãnh nhận qua đức tin và các bí tích. Đặc trưng của Luật Mới là không những Chúa Kitô dạy bảo cho ta con đường phải đi, mà chính Người là Đường, và Người còn ban cho ta ơn thánh để ta có thể hoàn tất cuộc hành trình trần thế, để trổ sinh hoa trái của Thánh Thần và các chân phúc nữa. Luân lý Kitô giáo không chỉ gồm luật lệ, mà trước hết chất chứa nguồn lực năng động thúc đẩy con người đi tìm những gì tuyệt hảo nhất để biểu lộ sức sống mới của Chúa Thánh Thần, của đức ái.

Như thế, THLL Kitô giáo theo cái nhìn của Thánh Tôma được trình bày gắn liền với lịch sử mạc khải, với Thiên Chúa, đồng thời hòa hợp với những khuynh hướng tự nhiên của con người như mong muốn hạnh phúc, muốn sống, muốn biết chân lý, muốn tương quan với tha nhân.

III. CÁC MỐI QUAN TÂM CỦA THẦN HỌC LUÂN LÝ HIỆN NAY[3]

THLL quan tâm đến mạc khải của Thiên Chúa về tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ trong Đức Giêsu, và qua Chúa Thánh Thần, như lời mời gọi sự đáp trả của chúng ta. THLL nhìn sự đáp trả của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa về tình yêu dâng hiến như là chính tâm điểm của đời sống luân lý.

THLL còn muốn tìm hiểu về phương thức mà người tín hữu đáp trả lại sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa, qua đời sống đức tin và luân lý của mình. Do đó, THLL chú tâm vào việc thực hành đức tin Công Giáo vào sự hình thành thể loại người mà Kitô hữu phải trở thành (‘đạo đức của hữu thể’, the ethics of being, hay ‘đạo đức về tính cách’, characters ethics); và thể loại hành vi mà chúng ta phải thi hành (‘đạo đức về hành xử, the ethics of doing). Cả hữu thể và hành xử, hay tính cách và hành vi, tạo nên mối liên kết phụ thuộc và tác động lẫn nhau mà THLL phải luôn xem xét cùng lúc.

Đạo đức về hữu thể: Luân lý quan tâm về nội tâm con người, hay là tính cách nhân vị. Nói cách khác, “chúng ta là ai” là điều có ý nghĩa thiết thân về mặt luân lý. Vì lý do này, THLL phải chú ý đến đạo đức của hữu thể, vốn tập trung vào những gì đang xảy ra cho con người thực hiện hành vi. “Đạo đức của hữu thể” trong một bối cảnh Kitô giáo sẽ hỏi “tôi phải trở thành thể loại người nào bởi vì tôi tin vào Đức Kitô?”

Đạo đức về hành xử: Tuy nhiên, nội tâm, cũng như ý định tốt, tầm nhìn, cũng chưa đủ cho luân lý. Nội tâm biểu đạt qua hành vi. Các hành vi đúng đắn xuất phát từ con người tốt lành, “nhìn quả biết cây”. “Đạo đức của hữu thể” chú ý vào con người tốt; “đạo đức về hành xử” chú ý vào hành vi đúng đắn. Trong bối cảnh Kitô giáo, nó hỏi “kiểu loại hành động nào tôi phải thực hiện bởi vì tôi tin vào Đức Kitô?” Có thể minh họa điều này bằng câu chuyện người Samari nhân hậu, kết thúc bằng lời dạy của Đức Kitô: Hãy đi và làm như vậy!

Bước đầu đời sống luân lý, hành vi được hướng dẫn bởi luật lệ. Nhưng nếu chỉ tập trung vào hành vi và luật lệ thôi thì chưa đủ cho sự hiểu biết về phạm vi hoạt động của luân lý. Nếu quá tập trung vào các hành vi, chúng ta có nguy cơ nhìn chúng như là những gì ở bên ngoài chúng ta và như là có một thực tại riêng của các hành vi đó. Hành vi diễn tả con người. Sự tốt lành luân lý là phẩm chất của con người, được cấu thành không chỉ do bởi các hành vi tuân giữ lề luật mà còn và quan trọng không kém, bởi sự vun đắp các nhân đức, thái độ sống và tầm nhìn. Hơn nữa, nếu quá chú ý vào luật lệ, chúng ta đánh mất cái nhìn về đời sống luân lý Kitô hữu trước hết là đáp trả lời mời gọi bước theo Đức Kitô, sống theo Chúa Thánh Thần, trở thành những con người biết yêu thương đúng đắn.

Lưu tâm của đạo đức về hành xử là thực hiện quyết định để giải quyết các xung đột về các giá trị luân lý để chúng ta có thể đạt đến hành vi đúng. Từ quan điểm này, suy tư THLL không chỉ về trách nhiệm và bổn phận của người làm hành động mà còn về hoàn cảnh tạo nên các tình huống luân lý. Những điều này được xem xét dưới ánh sáng của các quy phạm hay nguyên tắc luân lý. Như thế, đạo đức về hành xử lưu tâm đến Luật Thiên Chúa, giáo luật và dân luật nói chung.

Tóm lại, về cơ bản, THLL quan tâm đến đời sống nội tâm con người, tương quan con người với Thiên Chúa, và cách thức con người thể hiện đức tin trong các mối tương quan với chính mình, với tha nhân, với thế giới trong đó con người sống, bằng những tầm nhìn, nhân đức, thái độ, chọn lựa, hành vi cụ thể hằng ngày. Hiểu đúng lương tâm luân lý là nền tảng cho cách hiểu của chúng ta về luân lý và cách sống ở đời.

IV. LƯƠNG TÂM

1. Quan điểm Kinh Thánh về Lương Tâm[4]

Lương tâm trong Cựu Ước

Từ Syneidesis, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là lương tâm, xuất hiện một lần duy nhất trong sách Khôn ngoan (Kn 17, 10). Theo các nhà chú giải, đây là một câu văn chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp: “Kẻ gian ác tự đưa ra bằng chứng để lên án chính mình là hèn hạ bị lương tâm dày vò, nó luôn cảm thấy mình khổ sở”.

Người Do Thái nhìn kinh nghiệm về điều tốt và điều xấu theo một viễn tượng ngoại tại, khách quan, và đôi khi mang tính tập thể. Các truyền thống và những người lãnh đạo tôn giáo làm trung gian cho thánh ý Thiên Chúa. Tuy nhiên họ cũng có kinh nghiệm về tiếng nói của Thiên Chúa từ bên trong chính mình. Cách hiểu lương tâm mang tính nội tại như thế là một đóng góp lớn lao của các ngôn sứ trong dân Do Thái. Lương tâm là cái gì sâu kín nhất nơi con người, tại nơi đó họ được mời gọi trung thành với Thiên Chúa của Giao ước.

Ở đây ta có thể nói nền tảng của Cựu Ước là Nhân học tôn giáo của người Do Thái. Trong bối cảnh giao ước, Thiên Chúa ngỏ lời với con người: “Vì LỜI ở rất gần ngươi, nơi miệng ngươi, nơi lòng ngươi để ngươi thi hành” (Đnl 30, 14). Ý nghĩa và giá trị tôn giáo trong cuộc sống của người Do Thái nằm ở chỗ trung thành với lời Chúa dạy. Muốn được như thế, con người phải biết chăm chú lắng nghe lời Chúa, trong đó họ tìm thấy sự khôn ngoan để phân biệt tốt xấu. Thế mà luật Chúa lại ở tận đáy lòng (Tv 40, 9) và cũng từ nơi đáy lòng mình, con người giữ trọn lời Chúa để khỏi lỗi phạm đến Người (Tv 119, 11). Sự hiện diện của lời Chúa là món quà và con người có tự do đón nhận hay từ chối. Theo lối nhìn này, sự phân biệt tốt xấu liên kết với lời Chúa, là Đấng mời gọi con người sống trung thành với Người.

Đây là cuộc gặp gỡ giữa lời Chúa và sự đáp trả của con người. Giao ước, lời Chúa, con người lắng nghe và vâng phục, những điều này tạo thành một cái nền cho phép hiểu hiện tượng lương tâm trong Cựu Ước. Với bối cảnh hiện sinh như thế trong đó người Do Thái đặt mình trong mối tương quan giao ước giữa họ với Chúa, thì chuyện không thấy có từ ngữ lương tâm trong Cựu Ước không phải là một điều gì khiếm khuyết nghiêm trọng. Người Do Thái nhận thức mối tương quan đó như một giá trị sống còn cho đời sống tôn giáo của họ và thực trạng đặc biệt này đưa họ đến việc chấp nhận những đòi hỏi luân lý nghiêm túc, để rồi từ nơi sâu thẳm nhất trong con người mình, họ tự do thực hiện những đòi hỏi đó.

Theo Cựu Ước, từ cõi lòng, nơi sâu thẳm nhất trong con người, qua Chúa Thánh Thần tác động, con người lãnh nhận một thiên hướng bên trong (inner disposition) và lời mời gọi tránh điều dữ, làm điều lành, để chân thành tìm kiếm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực thi thánh ý Người. Cõi lòng bị lung lay nếu ta không tuân theo tiếng nói nội tâm này.

Người Do Thái cho rằng Chúa Thánh Thần có thể chạm đến và kêu gọi họ từ nơi cõi lòng. Tuy nhiên chính cõi lòng sẽ khen chê hành vi của ta: “Lòng tôi không xấu hổ thẹn thùng về bất cứ ngày nào trong đời tôi” (G 27, 6). Hoặc khi vua Đa-vít muốn chứng tỏ sức của mình và của dân Ít-ra-en bằng cách cho lệnh kiểm tra dân số thì “lòng ông bùi ngùi sau khi kiểm tra dân số” (2Sm 24, 10) vì đây là hành vi bị Thiên Chúa coi là không tin tưởng vào sự quan phòng và dẫn dắt của Người. Điều này có nghĩa là từ trong cõi lòng, người làm điều xấu biết rằng mình đã làm điều sai trái chống lại Chúa. Đây không phải là cái biết theo lý trí, nhưng chính là sự dằn vặt sâu xa nơi cõi lòng.

Không chỉ làm công việc tố cáo tội ai sau khi người đó làm điều xấu mà thôi, nhưng cõi lòng còn có thể lắng nghe Chúa Thánh Thần, là Đấng soi sáng và hướng dẫn con người sống ngay chính. Nếu ai có làm điều gì xấu thì Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ chạy đến gặp gỡ Chúa (x. Is 65, 14). Từ trong đáy lòng được Chúa Thánh Thần tác động, tác giả Thánh Vịnh đã cầu nguyện: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy, xin đừng nỡ đuổi con không cho gần nhan thánh Chúa, đừng cất khỏi con Thần Khí thánh của Ngài” (Tv 50, 12-13). Như thế sự sám hối trong Cựu Ước thường bắt đầu với cõi lòng tan vỡ.

Lối nhìn sâu sắc này về cõi lòng con người nơi đó họ được Thần Khí Chúa chạm đến và đánh động, vượt lên trên tính luân lý bề ngoài. Sứ điệp lớn lao được các vị ngôn sứ công bố đó là Thiên Chúa muốn viết lề luật của Người nơi cõi lòng là nơi sâu thẳm nhất nơi con người (x. Gr 31, 29-34; Ed 14, 1-3 và 36, 26). Dù cõi lòng con người có thể trở nên chai đá, nhưng sứ điệp của các ngôn sứ cho thấy Thiên Chúa có thể đổi mới ngay cả những cõi lòng chai đá nhất. Người ban cho họ sự nhạy cảm mới và giúp họ biết cởi mở cõi lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.

Tóm lại, chính cõi lòng lắng nghe tiếng Chúa, hiện diện trước mặt Chúa và trở thành nơi cho lương tâm ngự trị. Nói cách khác, cõi lòng chính là lương tâm của con người.

Lương tâm trong Tân Ước

Tân Ước cũng không có từ chuyên biệt để chỉ lương tâm. Chúa Giê-su cũng lấy lại chủ đề cõi lòng làm tính nội giới và nguồn gốc cho giá trị luân lý nơi con người (x. Mt 5, 8; 5, 28; 6, 21; Mc 7,20; Lc 6,45). Việc nhận thức các giá trị tôn giáo và luân lý cũng như việc quyết định có thái độ luân lý và tôn giáo như thế nào đều nằm trong cõi lòng của ta (Ga 3, 19-21; 9, 39-41; Mt 4,17).

Như thế, cõi lòng được coi là khả năng nhận thức những giá trị luân lý và cũng là khả năng tự quyết định của cá nhân trong tương quan với điều tốt hay điều xấu, tùy theo mối liên hệ của những điều này với Chúa. Cho nên cõi lòng giữ vai trò chủ yếu trong việc thiết lập mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người. Cõi lòng là nơi gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Trong mối liên hệ nền tảng này, cõi lòng trở thành nhân chứng hay vị quan tòa đối với những giá trị luân lý của hành vi nhân linh. Chính cõi lòng khiển trách (x. Mc 6, 16, câu chuyện Hê-rô-đê chém đầu Gio-an Tẩy Giả), gợi lên sự hối hận (x. Mc 14, 66-72 câu chuyện Phê-rô chối Chúa). Đó là kinh nghiệm tôn giáo, kinh nghiệm về lương tâm.

Theo Tự điển bách khoa Kinh Thánh, từ “cõi lòng” được dùng trong Tân Ước cả thảy 30 lần, trong đó đến 25 lần được dùng bởi Phao-lô. Với tư cách là tông đồ, Phao-lô đã đem lối nhìn của Cựu Ước, kinh nghiệm về việc Chúa kêu gọi và đổi mới cõi lòng ông vào trong sứ vụ rao giảng của mình. Dường như, sự nhạy cảm của Phao-lô liên quan đến lương tâm người khác phát xuất từ lương tâm tinh tế của chính ông (x. 2Cr 1, 12), từ sự nhận thức liên tục về lòng thương xót của Chúa đối với chính bản thân ông” (x. 2Cr 5, 11).

Sau đó Phao-lô đã chuyển sứ điệp này cho dân ngoại bằng chính ngôn ngữ của họ khi dựa trên kinh nghiệm của họ về lương tâm và lòng mộ đạo; nhưng cùng một lúc ông cố gắng đưa tất cả những thứ đó vào dưới ánh sáng của Đức Kitô. Ông không chỉ chấp nhận “những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen” (Pl 4, 8), mà còn sử dụng cả khái niệm chủ yếu của nền đạo đức phái Khắc kỷ, đó là Syneidesis. Qua đó Phao-lô nhắm tìm ra những gì là tích cực và có thể chấp nhận được trong khái niệm Hy Lạp về Syneidesis, nhưng đồng thời những gì ông nghĩ, rao giảng và viết lách đều đã bắt nguồn sâu xa từ truyền thống Kinh Thánh. Vì thế ông có khả năng đem sứ điệp của Chúa đến với ngôn ngữ của người nghe đương thời. Theo vài tác giả, ngay cả khi vay mượn những tiếng từ ngôn ngữ triết học thời của mình, sau đó Phao-lô cũng đã củng cố những từ ngữ đó bằng truyền thống trong Thánh Kinh về vai trò của cõi lòng.

Ngoài chức năng đánh giá phẩm chất hành vi cá nhân của mình, cõi lòng còn có khả năng đánh giá hành vi của người khác (x. 1Cr 10, 28-29; 2Cr 4,2; 5,11). Đồng thời thánh Phao-lô khuyên khi hành động ta phải lưu ý đến việc hành vi của ta dù đúng vẫn có thể gây vấp phạm cho những người khác có cõi lòng yếu đuối, không hiểu rõ vấn đề (x. 1Cr 8, 7; 10, 12). Rồi Phao-lô còn nói đến cõi lòng như quy luật của cuộc sống, nên có một cõi lòng ngay chính đủ để hành động an toàn về mặt luân lý (Rm 13, 5 và 1Cr 10, 25.27). Với những trường hợp điển hình nêu trên, lương tâm được coi như ánh sáng soi dẫn, chứng nhân, nhà lập luật, quan tòa.

Còn trong các thư mục vụ, Phao-lô cho rằng cõi lòng tốt, trong sạch làm cho cuộc sống người Kitô hữu hài hòa với đức tin của mình. Như thế cõi lòng trở thành yếu tố cần thiết cho đời sống luân lý thánh thiện để phục vụ Chúa (x 1Tm 1,5.19; 2Tm 1,3.5). Ngoài ra trong khi sử dụng khái niệm Syneidesis, Phao-lô còn muốn truyền đạt sứ điệp của các ngôn sứ về cõi lòng con người, nơi đó Thiên Chúa làm cho con người biết luật yêu thương của Người. Sứ điệp cốt lõi của Phao-lô là Thánh Thần đổi mới cõi lòng người ta, chỗ nào có sám hối và hoán cải chỗ đó có sự tái sinh cõi lòng. Rõ ràng ở đây Phao-lô muốn chỉ điều ta nói về lương tâm.

Phao-lô còn đề cập đến sự rạn nứt nơi sâu thẳm con người ta khi mình nói biết Thiên Chúa mà lại chống lại ân sủng Chúa và lời mời gọi của đức tin: “Với những kẻ nhiễm uế và không có đức tin, thì không có gì là trong sạch cả; trái lại trí khôn và lương tâm của họ đã bị nhiễm uế. Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa nhưng trong hành động họ lại chối Người. Họ là đồ ghê tởm, không vâng lời và không có khả năng làm một việc gì tốt” (Tt 1,15-16). Ơn cứu độ không chỉ giải thoát ta khỏi tâm trí và suy luận dối trá, nhưng còn chạm đến nơi sâu thẳm hơn đó là cõi lòng, mà nay chúng ta hiểu là lương tâm con người.

2. Các lập trường thần học về lương tâm như một khả năng thiêng liêng[5]

Lương tâm còn đi xa hơn sự nhận thức thực hành về các giá trị, vì nó còn xuất hiện như khả năng của tâm hồn đảm bảo cho những đòi hỏi của bổn phận. Lương tâm là tiếng vang trong nội tâm cho ta biết sự cứu độ hay hư mất của mình, chúng liên kết với việc ta có lập trường theo điều thiện hay theo điều ác.

Thánh Augustinô đã giải thích một cách sâu sắc lương tâm như một khả năng. Lấy lại ý tưởng của trường phái Khắc kỷ coi lương tâm như là sự tham dự vào Lex aeterna. Sau đó vị Thánh chủ trương sự thánh thiện của Thiên Chúa làm cho con người được tham dự vào lề luật của Thiên Chúa. Ánh sáng thần linh xâm nhập vào tận nơi sâu kín nhất trong cõi lòng con người và cõi lòng lại không ngừng thúc đẩy ta hướng về Chúa. Con người được dựng nên để yêu mến Thiên Chúa và sự thiện. Đây đích thực mới là bản chất sâu xa của con người.

Thần học kinh viện phân biệt rõ ràng giữa lương tâm như một khả năng thường xuyên với lương tâm như một hành vi trong mỗi lần xét xử. Lương tâm như một khả năng: Khả năng này được hiểu như một cố gắng thiết yếu của con người để bảo toàn chính bản thân khi hành động theo bản tính của mình, và hoàn lại cho Thiên Chúa những bổn phận do bản tính con người đòi hỏi. Như vậy, lương tâm là một khả năng nằm trong nơi sâu thẳm và tâm điểm của con người. Nó ý thức được ơn gọi riêng của mình trong kế hoạch của Thiên Chúa và cảm nghiệm được sự đòi hỏi của ơn gọi ấy. Ngoài ra nó còn thôi thúc con người về mặt tâm linh và tình cảm hãy chu toàn các đòi hỏi xuất phát từ ơn gọi ấy. Tất cả các điều ấy cho thấy tự bản chất lương tâm mang một chiều kích tôn giáo. Đây là nơi con người được kêu gọi lãnh trách nhiệm trước mặt Chúa. Cho nên ta hiểu được lý do tại sao khi bất phục tùng tiếng gọi của lương tâm sẽ làm ta cảm thấy có tội. Theo quan niệm trên, ta có thể nói lương tâm có khả năng giúp con người biết các nghĩa vụ luân lý của mình và thúc đẩy con người chu toàn các nghĩa vụ đó.

Theo Richard Gula, trong quá khứ các tác giả cố gắng giới hạn lương tâm vào chức năng của ý chí hoặc lý trí, còn ngày nay ta hiểu lương tâm như sự diễn đạt toàn thể con người. Nói cách đơn giản lương tâm là “chính tôi đi đến quyết định”. Điều này không những bao hàm những khía cạnh nhận thức và ý chí, nhưng còn cả những khía cạnh cảm tính, trực giác, thái độ và thể xác nữa. Sau cùng lương tâm là sự dấn thân toàn thể con người tới các giá trị. Người ta phải có những phán đoán dưới ánh sáng sự dấn thân áp dụng các giá trị này.

Với ý nghĩa toàn diện của lương tâm ta có thể lượng giá ba chiều kích của lương tâm theo truyền thống Giáo hội: 1/Synderesis, khuynh hướng nền tảng hay khả năng trong ta biết điều tốt và làm điều tốt. 2/ Kiến thức luân lý (moral science) là tiến trình khám phá những điều tốt phải làm và những điều xấu phải tránh. 3/ Sự phán đoán rành mạch về điều tốt “tôi phải làm” trong tình huống cá biệt. Đây không phải là ba thực tại cách biệt, cũng không phải là ba giai đoạn phân biệt qua đó lương tâm đi từ trạng thái chưa trưởng thành đến trạng thái trưởng thành, nhưng chỉ là ba ý nghĩa hay ba chiều kích, trong đó ta có thể hiểu một thực tại duy nhất của lương tâm mà thôi.

Chiều kích 1: Lương tâm như một khả năng (Synderesis)

Đây là khả năng biết và làm những điều tốt và tránh những điều xấu.

Hướng chiều về điều tốt có thể cho thấy sự khác biệt sống động giữa điều gì là đúng, với điều gì là sai trong mỗi chọn lựa luân lý. Việc kinh nghiệm những khác biệt luân lý trong cuộc sống khẳng định chính sự hiện diện của lương tâm. Vì có synderesis, nên ta chia sẻ ý thức chung về giá trị luân lý và cảm thức này tạo nên một sự khác biệt giữa việc làm một điều đúng và tránh một điều sai. Ta không thể sống một cách luân lý nếu không có chiều kích 1 này của lương tâm, nhưng tự nó chiều kích 1 này chưa đủ để làm cho ta có khả năng lựa chọn điều đúng trong mỗi trường hợp đặc thù.

Chiều kích 2: Lương tâm như một kiến thức luân lý (moral science)

Sức mạnh của khả năng phân biệt tốt xấu làm cho ta có khả năng tìm thấy những giá trị luân lý khách quan trong mỗi tình huống riêng biệt, để khám phá những điều đúng phải làm. Còn việc khám phá ra những giá trị luân lý thực tiễn (operative) lại là công việc của chiều kích thứ 2 này của lương tâm.

Công việc chủ yếu của nó là sự nhận thức xác đáng và lý luận đúng về mặt luân lý. Vì lẽ đó, người ta lưu tâm rất nhiều đến kiến thức hiểu biết về luân lý trong vấn đề giáo dục lương tâm hay trong những tranh luận về luân lý. Kiến thức hiểu biết về luân lý có thể đưa đến sự sáng suốt hay mù quáng, bất đồng hay lầm lạc mang tính chất luân lý.

Cho nên lương tâm cần phải được giáo dục, đào tạo, hướng dẫn, kiểm tra và biến đổi. Kiến thức, hiểu biết luân lý trở thành mục tiêu của tiến trình đào tạo lương tâm, giúp ta nhìn đúng và nghĩ đúng. Chịu trách nhiệm trước sự thật luân lý, lương tâm được soi sáng và trợ giúp bằng nhiều cách để nhận ra và có được sự thật này. Điều đó có nghĩa sự hiểu biết, kiến thức luân lý được đào tạo trong một cộng đoàn và nhờ từ nhiều nguồn khôn ngoan về luân lý để biết mình có thực sự ở trong sự thật luân lý hay không. Lương tâm không tự trị. Cho nên hoạt động của nguồn kiến thức hiểu biết luân lý giống như một tiến trình.

Chiều kích 3: Lương tâm như một phán đoán

Đây là một chiều kích khác của lương tâm hiểu theo nghĩa hẹp của từ ngữ, nó đưa ta đi từ nhận thức, lý luận đến hành động. Ở đây hướng chiều tổng quát về điều tốt và tiến trình xem xét những nhân tố xác đáng đều hội tụ lại để đưa ra phán quyết về điều hiện giờ tôi phải làm và dẫn tôi đến sự dấn thân làm điều đó. Để đi đến sự phán đoán này, nhiều người có thể giúp tôi; nhưng không ai có thể thay tôi phán đoán, vì đây là điều chỉ mình tôi có thể làm được mà thôi. Đặc điểm của phán đoán trong lương tâm là đây luôn là một phán đoán cho cá nhân tôi. Nó không bao giờ là một phán đoán về một điều gì mà một người nào đó phải làm, nhưng chỉ phán đoán về điều tôi phải làm mà thôi.

Tinh hoa của phẩm giá là tự do của lương tâm đều nằm trong chiều kích thứ ba này của lương tâm: tôi luôn phải làm điều tôi cho là đúng và tránh điều tôi cho là sai. Nếu người ta thực sự tin vào lương tâm của mình cho rằng hành động này hơn hành động khác, nó là lời mời gọi khách quan của Chúa. Nên hành động này không còn đơn thuần là một sự lựa chọn giữa nhiều sự lựa chọn khác, thì về mặt luân lý, hành động này là hành động mà người ta cần phải có. Đó chính là điều mà mệnh lệnh “buộc phải theo lương tâm mình” muốn nói. Cho nên người ta không thể xâm phạm chiều kích thứ 3 này của lương tâm. Và đây cũng chính là điều Công Đồng Vatican II gọi là “tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người” (GS s. 16) ở đó, con người hiện diện một mình với Thiên Chúa.

Dưới ánh sáng hiểu biết về lương tâm như trên, ta có thể đánh giá sự thật về câu thành ngữ: “Hãy để lương tâm bạn hướng dẫn”. Nếu theo câu thành ngữ này mà không biết phê phán gì cả, không nắm bắt kiến thức luân lý, tức là ta đã “tiêm” vào bản chất của lương tâm một “liều độc dược” cá nhân chủ nghĩa, tự do lệch lạc và cắt đứt chiều kích thứ 3 của lương tâm ra khỏi việc nó cần được hướng dẫn bởi những nguồn khôn ngoan luân lý khác.

“Hãy để lương tâm bạn hướng dẫn” phải được giải thích theo chiều kích thứ 3 này của lương tâm. Khi chiều kích thứ 1 và thứ 2 của lương tâm làm tốt công việc chuẩn bị, đến lúc chiều kích thứ 3 của lương tâm thực hiện vai trò. Sự phán đoán trong mỗi trường hợp sẽ đáng tin cậy tương xứng với công việc chuẩn bị kỹ lưỡng mà người ấy đã làm trong việc đào tạo lương tâm mình. Cuối cùng chiều kích thứ 3 của lương tâm sẽ chỉ là người hướng dẫn chắc chắn cho hành động đối với người hiểu biết và tự do đích thực. Nên khi xâm phạm đến chiều kích thứ 3 này của lương tâm là xúc phạm đến sự trung thực của con người. Và chúng ta cũng thấy rõ hơn, để chiều kích thứ 3 này của lương tâm có được sức mạnh của nó, đòi hỏi hai chiều kích kia của lương tâm phải được chuẩn bị đầy đủ.

Có các hiểu biết trên, chúng ta sẵn sàng để hiểu về lương tâm theo giáo huấn chính thức của Huấn quyền:

Con người khám phá ra tận đáy lòng một tiếng nói kêu gọi con người phải làm lành lánh dữ. Con người không đặt ra cho mình tiếng nói này, mà vẫn phải tuân theo. Tiếng nói ấy vang lên đúng lúc trong thâm tâm của chính con người: làm điều này, tránh điều kia. Đó chính là lương tâm, là lề luật được Chúa khắc ghi trong tâm khảm mỗi người. Vâng theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người và chính con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật ấy (Rm 2, 14-16).

Lương tâm là cõi lòng sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây chỉ một mình con người hiện diện với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong đáy lòng người ấy. Nhờ lương tâm, lề luật được thực hiện trong sự yêu mến Thiên Chúa và anh em và được biểu lộ cách kỳ diệu (Mt 22, 37-40 và Ga 7,14). (GLHTCG s. 1776, trích Gaudium et spesGS s. 16).

Khả năng, kiến thức hiểu biết, và khả năng phán đoán của lương tâm được xây dựng dần dần trong tiến trình tăng trưởng của mỗi người, chịu ảnh hưởng của cả các tác động bên ngoài của môi trường, vì thế lương tâm có thể lầm lạc. Thói quen phạm tội làm cho lương tâm dần trở nên mù quáng (MV16). Do đó, cần huấn luyện lương tâm.

3. Huấn luyện lương tâm

“Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).

Phán quyết của lương tâm về tính đúng sai, tốt xấu của một hành vi định làm không chỉ là một phán quyết về giá trị của chính hành vi, nhưng còn là một phán quyết về người thực hiện hành vi. Lựa chọn hành động của người ấy cũng chính là chọn lựa tính cách luân lý của người đó. Những hành vi của ta góp phần làm nên con người của ta, nói cho ta biết ta là ai. Chọn làm điều tốt là chọn trở nên một con người tốt; chọn làm điều xấu tức là chọn trở thành một con người xấu. Phán quyết của lương tâm là một phán quyết mang tính quyết định.

Một mặt, “Con người luôn luôn phải tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán ấy, con người tự kết án chính mình” (GLHTCGs.1790). Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhận ra điều này là phán quyết của con người có khả năng sai lầm. Thậm chí, khi một người đưa ra phán quyết chắc chắn là mình đúng, thì có thể người ấy vẫn chưa hiểu đúng vấn đề, chưa đủ kiến thức cần có, hoặc chưa ý thức đủ về tất cả các sự kiện. Trong những trường hợp này, về mặt chủ quan, người đưa ra phán quyết đang hành động với một đức tin tốt lành và không bị kết tội, thế nhưng về mặt khách quan, người ấy vẫn sai lầm và sự dữ trong hành động ấy vẫn diễn ra.

Người ta cũng có thể trở nên đáng trách do thiếu sự phán quyết đúng đắn hay vì sự thiếu hiểu biết của chính mình. “Điều này xảy đến khi: ‘Con người không mấy lo lắng tìm kiếm chân lý và điều thiện, cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng’. Trong các trường hợp đó, con người phải chịu trách nhiệm về điều xấu đã làm” (GLHTCGs.1791, trích dẫn GS, 16). Các nguồn gốc sai lầm trong luân lý có thể khác nhau: “Xuất phát từ thiếu hiểu biết về Đức Kitô và Tin Mừng; gương xấu của người khác; nô lệ các đam mê; nghĩ sai lạc về tự do lương tâm; khước từ quyền bính và giáo huấn của Hội Thánh; thiếu hoán cải và bác ái” (GLHTCGs.1792).

Trong tất cả trường hợp – dù sự thiếu hiểu biết đó đáng trách hay không – người ta luôn có bổn phận phải làm tất cả những gì cần để hiểu biết đầy đủ hơn, để có thể đưa ra phán đoán đúng đắn, từ đó có thể sống đúng đắn. Sự thiếu hiểu biết như thế luôn luôn có hại.

Có vài quy tắc “vàng” giúp giáo dục lương tâm, như được phác thảo trong sách GLHTCG: 1/ Không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt một kết quả tốt (mục đích không biện minh cho phương tiện); 2/ Tất cả những gì mình muốn người ta làm cho mình thì chính mình hãy làm cho người ta; những gì mình không muốn người ta làm cho mình thì mình đừng làm cho người ta; 3/ Đức ái Kitô giáo luôn luôn đòi chúng ta tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ (GLHTCGs.1789).

Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để rèn luyện lương tâm. Chúng ta phải đón nhận Lời Chúa trong đức tin, trong kinh nguyện và đem ra thực hành; phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thánh Giá Ðức Kitô; nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, có các chứng từ và lời khuyên nhủ của các thánh, hiền nhân, được giáo huấn của Huấn quyền hướng dẫn (GLHTCG s.1785).

Để lương tâm được đào luyện đúng cách, cần phải nỗ lực để nên chính trực và thật thà. Có nghĩa là cố gắng sao cho những phán đoán của lương tâm được hình thành dựa trên nền tảng là những suy tư tốt đẹp và biết chấp nhận những sự thiện, chân lý mà Thiên Chúa đã mạc khải. Mang thân phận con người, chúng ta thường dễ bị ảnh hưởng bởi các thế lực tiêu cực, bị cám dỗ phạm tội như tổ tông xưa. Chúng ta dễ bị lôi cuốn vào một thứ tự trị sai lầm cũng như sự cám dỗ chối bỏ cả những giáo huấn đúng đắn có thẩm quyền hợp pháp[6].

“Đào luyện lương tâm là nhiệm vụ phải theo đuổi suốt đời. Ngay từ thời thơ ấu, trẻ con phải được hướng dẫn để nhận biết và thực hành luật nội tâm đã được lương tâm công nhận. Một nền giáo dục tốt dạy con người sống đức hạnh, bảo vệ và giải thoát con người khỏi sợ hãi, ích kỷ và kiêu căng, những mặc cảm tội lỗi và thái độ tự mãn, những thứ phát xuất từ sự yếu đuối và dễ sai lầm của con người. Đào luyện lương tâm bảo đảm tự do và tạo bình an trong tâm hồn.” (GLHTCGs.1784)

Phán quyết của lương tâm là tâm điểm của mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa, và với tha nhân. Nó là điều cốt lõi của đời sống cũng như hạnh phúc của chúng ta, bởi vì chính lương tâm định hướng cho chúng ta, giúp chúng ta sống theo đường lối mà Đấng Tạo Thành đầy yêu thương đã vạch ra cho các thụ tạo. Ngày ngày, chúng ta luôn phải đối diện với nhiều lựa chọn, và tất cả những lựa chọn ấy đều dẫn chúng ta theo một hướng nào đó. Không phải lúc nào chúng ta cũng sẵn sàng để trả lời các tình huống xảy ra, thế nhưng, chúng ta buộc phải mở tâm trí và con tim mình cho sự thật vốn được tỏ lộ cho chúng ta qua lý trí và đức tin. Chúng ta buộc phải lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa vốn được lý trí và đức tin nhận biết[7].

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắc về sự cần thiết nối kết lương tâm và chân lý: “Không kém quan trọng trong việc huấn luyện lương tâm là phục hồi mối liên kết cần thiết giữa tự do và chân lý. Như tôi đã thường nói, khi tự do bị tách rời chân lý khách quan thì sẽ không thể thiết lập các quyền nhân vị trên một nền tảng lý trí vững chắc; và như thế mở đường cho xã hội bị phó mặc vào ý muốn không kìm hãm của các cá nhân hay sự chuyên chế đàn áp của chính quyền.” (EV s.96)

Thánh Gioan Phaolô II nhắc nhở công việc giáo dục nối kết việc đào tạo lương tâm để giúp các cá nhân vẫn mãi là người hơn, dẫn dắt họ đi đến chân lý một cách trọn vẹn hơn, giúp họ có lòng tôn trọng ngày càng tăng đối với sự sống và huấn luyện họ trong các tương quan liên vị đúng đắn. (EV s.97)

Những nhận định cần thiết vừa nêu trên đưa đến một kết quả tích cực là một khi đã đào tạo lương tâm cách đầy đủ nhờ biết lưu ý đến chân lý khách quan, luật tự nhiên và ân sủng của Chúa, việc thanh lọc ý hướng và tích lũy kiến thức luân lý chắc chắn sẽ có lúc dẫn ta đến việc thấy rằng mình đã có khả năng dựa vào lương tâm của mình. Việc đào luyện lương tâm không hạn chế sự tự do của con người. Đúng hơn, nó làm cho sự tự do ấy trở nên đích thực và trọn vẹn, vì với mỗi lựa chọn được thực hiện dựa trên nền tảng của một lương tâm được đào luyện tốt, chúng ta tiến gần đến Thiên Chúa, cũng như tiến gần hơn đến hạnh phúc vĩnh cửu đời người. Đến tầm mức này, để đáp lại lời mời gọi riêng tư của Chúa đối với cá nhân mình, thì nguyên việc giữ đúng luật mà thôi không còn đủ nữa. Nhưng dần dần người ta đạt đến tình trạng sống theo nguyên tắc của thánh Augustinô: “Hãy yêu đi rồi mới làm những gì mình muốn”.

Đây chính là mức trưởng thành tâm linh tuyệt vời mà các thánh trong Giáo hội đã đạt được.

4. Lương Tâm Luân Lý và Siêu ngã (Superego)[8]

John Glaser phân biệt superego và lương tâm luân lý trong một bài viết thú vị “Lương Tâm và superego: một phân biệt quan trọng”. Glaser chỉ ra rằng thất bại trong việc phân biệt superego với lương tâm luân lý có thể gây ra sự nhầm lẫn mục vụ nghiêm trọng.

Một trong các lỗi lầm thông thường nhất và gây sự lẫn lộn khi nói về lương tâm, hay khi xem xét lương tâm, là nhầm lẫn điều mà các thần học gia gọi là “lương tâm luân lý” với những gì mà các nhà tâm lý nói về siêu ngã, superego như là lương tâm. Superego như là một phần ký ức của con người. Superego chất chứa tất cả những gì “nên làm” và những gì “phải làm” mà chúng ta đã tiếp thu trong tiến trình lớn lên dưới ảnh hưởng của quyền lực, các hình ảnh, câu chuyện, đầu tiên là cha mẹ, sau đó là các gương mặt uy quyền khác như là thầy cô, cảnh sát, ông chủ, các nữ tu, linh mục… Công cụ mạnh mẽ của superego là mặc cảm có lỗi nảy sinh một cách tự động vì các lỗi đơn giản cũng như vì các vấn đề luân lý nghiêm trọng hơn. Superego bảo chúng ta rằng chúng ta là tốt khi chúng ta làm những gì chúng ta được bảo làm, và nó bảo chúng ta rằng chúng ta là xấu và làm cho chúng ta cảm thấy có lỗi khi chúng ta không làm những gì mà quyền lực trên chúng ta bảo chúng ta làm.

Để hiểu superego, chúng ta bắt đầu với thời thơ bé. Khi trẻ thơ, cần được yêu thương và được chấp nhận như là một nhu cầu và động lực cơ bản của đứa trẻ. Khi ấy, đứa bé sợ hình phạt không chỉ vì sự đau đớn thân xác, nhưng quan trọng hơn bởi vì nó sợ không còn được yêu thương. Bởi vậy, trẻ thơ điều khiển hành vi của chúng sao cho đừng bị mất tình thương và sự chấp nhận. Trẻ thơ tiếp thu các mẫu mực và các điều lệ của cha mẹ, hay của ai đó có uy quyền trên chúng, như là vấn đề của sự tự bảo vệ. Hình ảnh uy quyền chiếm một chỗ bên trong trẻ và trở thành nguồn của các mệnh lệnh hay cấm đoán. Gordon Allport mô tả một câu chuyện vui nhằm phác họa cách thức mà một hình ảnh quyền uy chiếm một chỗ bên trong trẻ thơ đến nỗi mà không chỉ nội dung các mệnh lệnh mà còn tiếng nói của uy quyền ngoại tại nổi lên từ bên trong:

Một cậu bé ba tuổi thức giấc lúc 6 sáng và bắt đầu các tiếng chơi đùa ồn ào. Người cha, nhấp nháy con mắt ngái ngủ, vào phòng cậu bé và nghiêm khắc ra lệnh: “Quay vô giường và không được thức dậy cho đến 7 giờ sáng”. Cậu bé vâng lời. Vài phút sau tất cả đều im lặng, nhưng chẳng mấy chốc có các tiếng động lạ khiến người cha lần nữa nhìn vào trong phòng. Cậu bé đang ở trên giường như đã được ra lệnh; nhưng nó đưa tay ra cạnh giường, rồi nó thụt cánh tay lại và tự nói, ‘trở lại chỗ kia’. Tiếp đến một cẳng chân lại đưa ra cạnh giường, và rồi rút lại với giọng điệu nghiêm khắc, ‘con đã nghe những gì bố đã bảo con’. Cuối cùng thì cả người cậu bé nhoài ra cạnh giường và thụt lại rất mau, nghiêm khắc cảnh báo chính mình, ‘không được ra khỏi cho đến 7 giờ’. Chúng ta không thể chờ mong có một ví dụ nào rõ ràng hơn về vai trò nội tâm hóa của người cha như là một phương tiện để tự kiểm soát và trở nên xã hội hóa[9].

Ở giai đoạn này, tiếng nói bên ngoài của uy quyền đang trong tiến trình trở nên nội tâm hóa, hay một giọng nói quyền uy thích ứng hơn. Công việc của cha mẹ là tranh thủ tiếng nói nhân danh nhân đức, như cha mẹ chính họ nhận thức nhân đức.

Một cách đơn giản, khác biệt giữa superego và lương tâm luân lý là phân biệt giữa những “cái nên làm” hay những “cái phải làm” và những “cái muốn làm”, là gốc rễ của các mệnh lệnh định hướng hành xử của cá nhân. Những “cái nên làm” hay những “cái phải làm” thuộc về một ai đó. Những “cái muốn làm” thuộc về riêng ta.

Mệnh lệnh của superego bảo chúng ta những “cái nên làm” xuất phát từ quá trình tiếp nhận các điều lệ và giới hạn từ những ai có

thẩm quyền yêu thương và chấp nhận. Chúng ta tuân theo các mệnh lệnh của superego do sợ hãi bị mất tình thương, hay từ nhu cầu muốn được chấp nhận và khích lệ, hay sợ bị phạt. Lương tâm luân lý thì hành động trong yêu thương đáp ứng lại lời mời gọi chúng ta dấn thân cho các giá trị. Các mệnh lệnh của lương tâm luân lý khởi phát từ quan niệm và sự đánh giá cá nhân về các giá trị mà chúng ta khám phá ra trong các câu chuyện hay mẫu gương của những con người mà chúng ta muốn nên giống như thế. Lương tâm luân lý là chìa khóa cho sự tự do có trách nhiệm về việc muốn làm những gì chúng ta làm bởi vì chúng ta trân trọng những gì chúng ta đang tìm kiếm, phấn đấu. Trong khi đó những “cái nên làm” hay những “cái phải làm” của superego muốn tìm kiếm uy quyền, những “cái muốn làm” của lương tâm luân lý tìm kiếm các giá trị cá nhân hóa và nội tâm hóa. Có một thời gian khó khăn để biện biệt giữa những gì Thiên Chúa ban cho ơn thực hiện hay mời gọi người ấy làm với những gì mà một uy quyền bảo người ấy phải làm, nên làm.

Một người hình thành một lương tâm cá nhân tốt đẹp là người có khả năng hội nhập các luật lệ và những giá trị luân lý thành thái độ nội tâm và xác tín riêng của mình. Nhưng không phải ai cũng thành công trong việc chuyển từ superego sang lương tâm luân lý. Có những người đến tuổi trưởng thành rồi, nhưng vẫn còn ở trong tình trạng superego vì họ vẫn chưa đủ khả năng sống theo sự xác tín nội tâm của mình, mà chỉ biết làm những gì người khác trông đợi nơi họ.

Cho nên trưởng thành về mặt tâm linh là khiêm tốn nhận ra những gì ở nơi mình còn xa vóc dáng trưởng thành viên mãn của Đức Kitô như thế nào, để rồi từ đó sẵn sàng và hết lòng đón nhận những gì lề luật cung cấp giúp ta sửa chữa những quan điểm lệch lạc cá nhân và che chở ta khỏi ảnh hưởng tiêu cực của các xu hướng và thành kiến cá nhân.

Cảm thức cho đúng đắn về Huấn quyền hết sức chủ yếu đối với nỗ lực tiến hành việc phân định luân lý, đào luyện lương tâm, và đối thoại giữa lương tâm và Huấn quyền là chủ đề của bài viết này.

V. HUẤN QUYỀN

Trước hết, về vấn đề từ ngữ. Nội hàm từ ngữ “Huấn quyền” có thay đổi theo dòng thời gian. Hiện tại, theo lối hiểu chung, từ ngữ “Huấn quyền” dùng để chỉ giáo hoàng và các giám mục theo chức năng giáo huấn của các ngài.

1. Giáo hội là Mẹ và Thầy

Theo sách GLHTCG, chính trong Giáo hội, trong sự hiệp thông với các tín hữu mà người Kitô hữu chu toàn ơn gọi của mình. Từ nơi Giáo hội, tín hữu đón nhận Lời Chúa chứa đựng các giáo huấn của Luật Chúa Kitô (Gl 6,2). Giáo hội là máng chuyển ban phát ân sủng, các bí tích để nâng đỡ các tín hữu trên con đường trần thế. (GLHTCG s.2030)

Ðời sống luân lý là một việc thờ phượng thiêng liêng. Các tín hữu “dâng hiến thân xác mình làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Rm 12,1). Giáo hội là Thân Thể mà Ðức Kitô là đầu và các tín hữu là chi thể. Trong Giáo hội, phụng vụ và việc cử hành các bí tích, lời cầu nguyện và lời giảng dạy của các mục tử kết hợp với ân sủng Thánh Thần, soi sáng và nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu. (GLHTCG s. 2031)

Ðược Chúa Kitô ủy thác, Huấn quyền dạy cho các tín hữu Luật Thiên Chúa như con đường sự sống và chân lý. Do đó, các tín hữu có quyền, và phải được giáo huấn về các lề luật cứu độ của Thiên Chúa; những điều luật này có sức thanh luyện trí phán đoán và cùng với ân sủng, chữa lành lý trí bị tổn thương của con người. Tín hữu có nghĩa vụ tuân giữ các sắc lệnh do quyền bính hợp pháp của Giáo hội ban hành. Cả khi những điều này mang tính cách kỷ luật, các tín hữu vẫn phải vâng phục với tình yêu. (GLHTCG s. 2037)

Ðức giáo hoàng và các giám mục cùng hiệp thông với người là những thầy dạy đích thực, nghĩa là có uy quyền của Ðức Kitô, rao giảng cho dân Chúa được trao phó cho các ngài, những điều phải tin, đức mến phải thực hành, chân phúc phải hy vọng và phải áp dụng vào đời sống. (x. Lumen GentiumLG 25, GLHTCG s. 2034)

2. Thẩm quyền của Huấn quyền trong giải thích Luật Luân Lý

Giáo hội là “cột trụ và điểm tựa của chân lý” (1Tm 3,15), “đã nhận từ các tông đồ mệnh lệnh long trọng của Ðức Kitô là rao giảng chân lý cứu độ” (x. LG 17). Trong mọi thời và mọi nơi, Giáo hội có thẩm quyền công bố các nguyên tắc luân lý. Hơn nữa, Giáo hội có quyền phán quyết về tất cả các vấn đề nhân linh, mỗi khi những quyền lợi cơ bản của con người hay phần rỗi của các linh hồn đòi hỏi. (GLHTCG s. 2032)

Huấn quyền của các mục tử Giáo hội về vấn đề luân lý, thường được thực hiện trong huấn giáo và thuyết giảng, với sự giúp đỡ của các nhà thần học và các tác giả linh đạo. Như thế, “kho tàng luân lý Kitô giáo”- gồm một tổng hợp đặc thù những quy luật, mệnh lệnh và các nhân đức phát sinh từ lòng tin vào Ðức Kitô và được sinh động nhờ đức mến- được lưu truyền qua các thế hệ, được các mục tử hướng dẫn và bảo vệ. (GLHTCG s. 2033)

Trong thông điệp Humanae Vitae, Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI khẳng định thẩm quyền của Huấn quyền trong việc giải thích luật luân lý tự nhiên. Ngài nhắc lại rằng các vị giáo hoàng tiền nhiệm đã nhiều lần công bố rằng Chúa Giêsu Kitô, khi ban quyền năng Thiên Chúa cho Thánh Phêrô và các Tông Đồ khác và sai họ đi giảng dạy khắp thế gian Điều Răn của Người, Chúa đã đặt các ngài làm người chính thức bảo vệ và giải thích toàn thể bộ luật luân lý, không phải chỉ luật Tin Mừng, mà cả luật Tự Nhiên nữa. Vì luật Tự Nhiên-được hiểu là lý trí con người tham dự khám phá luật Thiên Chúa- cũng biểu lộ thánh ý của Chúa, và vị Thánh Giáo Hoàng nhấn mạnh sự tuân phục trung thành luật Tự Nhiên là cần thiết cho sự cứu rỗi của con người. (HV 4)

Khi giảng dạy và áp dụng luân lý Kitô giáo, Giáo hội cần đến sự cộng tác của mọi thành phần: sự khôn ngoan và nhạy bén của các mục tử, kiến thức của các nhà thần học và đóng góp của mọi Kitô hữu và mọi người thiện chí. Ðức tin và việc thực hành Tin Mừng đem lại cho mỗi người kinh nghiệm sống “trong Ðức Kitô”; kinh nghiệm này soi sáng và giúp họ đánh giá những thực tại thần linh và nhân linh theo Thần Khí (x.1Cr 2,10-15). Như vậy, Chúa Thánh Thần có thể dùng những kẻ bé mọn nhất, để soi sáng các người thông thái và những người giữ chức vị cao trọng hơn. (GLHTCG s.2038)

Các thừa tác vụ phải được thi hành với tinh thần phục vụ huynh đệ và tận tâm đối với Giáo hội nhân danh Chúa (x.Rm 12,8.11). Các thừa tác viên cần hết sức lưu ý đến phúc lợi của mọi người, như được trình bày trong luật luân lý, tự nhiên và mạc khải và cả trong luật Giáo hội và giáo huấn có thẩm quyền của Huấn quyền về các vấn đề luân lý. GLHTCG nhắc nhở tín hữu không nên đối nghịch lương tâm cá nhân và lý trí với luật luân lý hay với Huấn quyền (GLHTCG 2039).

Như thế, một tinh thần hiếu thảo đích thực đối với Giáo hội sẽ được triển nở trong các tín hữu. Như người mẹ hiền, Giáo hội thông truyền cho chúng ta lòng thương xót của Chúa; lòng thương xót này vượt thắng mọi tội lỗi chúng ta, và tác động đặc biệt trong bí tích Hòa Giải. Hằng ngày qua phụng vụ, như người mẹ ân cần, Giáo hội đem đến cho chúng ta lương thực thường tồn là Lời Chúa và Thánh Thể (GLHTCG s. 2040).

Theo vài cuộc điều tra thì đặc biệt kể từ khi thông điệp Humanae Vitae của Đức Phaolô VI, công bố năm 1968, bàn về vấn đề điều hòa sinh sản, một số thần học gia luân lý và kể cả tín hữu công giáo đã bắt đầu công khai nói lên thái độ bất đồng ý kiến của mình đối với giáo huấn này của Đức Giáo Hoàng, và bước vào một cuộc đối kháng về mặt thực tế, đối với vài giáo huấn chính thức của Huấn quyền.

VI. ĐỐI THOẠI GIỮA LƯƠNG TÂM VÀ HUẤN QUYỀN

1. Đối với những người ngoài Kitô giáo

Công đồng Vatican II khẳng định trong Hiến Chế về Giáo hội: “Những ai, không do lỗi của mình, mà không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo hội, nhưng lại tìm kiếm Thiên Chúa với quả tim chân thành, và nhờ ơn Chúa thúc đẩy mà nỗ lực chu toàn ý Chúa bằng hành động như lương tâm họ mách bảo và đòi hỏi, những người ấy có thể được cứu độ” (LG 16).

Công Đồng nói đến những người không được nghe biết Tin Mừng, nhưng nhờ ơn Chúa, vẫn nỗ lực sống theo lương tâm ngay thẳng. Những người này cũng được Chúa ban ơn cần thiết để được cứu độ. Ơn cứu độ của Chúa không mâu thuẫn với nỗ lực của con người. Cả Kitô hữu và người ngoài Kitô giáo đều phải nỗ lực phấn đấu để được cứu. Sống theo lời Chúa hay sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng đều chẳng phải là chuyện dễ dàng, vì cả hai đều đòi hỏi từ bỏ mình và chấp nhận những hy sinh to lớn.

2. Đối với Kitô hữu

Có nhiều người xem lương tâm luân lý là một điều gì đó riêng tư, nội tại, mang tính cách chủ quan và không ai có quyền phê bình hay chỉ trích. Thậm chí người ta còn nghĩ có thể tìm ra lý lẽ biện minh cho cách nhìn này trong sách GLHTCG: “Con người có quyền hành động theo lương tâm và trong tự do, để tự mình có những quyết định luân lý. ‘Không được cưỡng bức ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm, nhất là trong lãnh vực tôn giáo.’” (GLHTCG, 1782). Vấn đề của cái nhìn quá chủ quan này là đã bỏ qua một điểm quan trọng: không nhìn được tổng thể vấn đề của lương tâm. Đoạn trích trên đây, cần nối kết với các đoạn khác, nếu không, ta sẽ không thể được hiểu được ý nghĩa của nó một cách đúng đắn.

Trước hết, cần nhắc lại xác tín thần học chủ chốt: theo quan điểm Kitô giáo thì tự nguồn cội, luân lý mang một chiều kích Giáo hội. Vì vậy, mọi hành vi luân lý đích thực theo ý nghĩa Kitô giáo đều phải minh chứng cho phẩm chất đạo lý của mình qua niềm hiệp thông trong Giáo hội. Chính ở trong đó, Huấn quyền giữ một chỗ đứng chủ yếu. Gồm những thành phần trong Giáo hội có trách nhiệm lo gìn giữ cho Dân Chúa được luôn hiệp nhất chung quanh Chúa Kitô, Huấn quyền là một trong những giới cấp thẩm quyền có đủ uy thế để người đã chịu phép rửa tội có thể dựa vào đó mà kiểm chứng về tính giáo hội của đường lối luân lý của mình, xem đường lối đạo lý ấy có tương hợp với mạc khải tỏ lộ ở trong Kinh Thánh và Truyền Thống hay không.

Thánh Hồng Y John Henry Newman, người vốn được coi là một trong các cột trụ trí thức của Vatican II, nói về tương quan của lương tâm với các vị đại diện khác của Chúa Kitô trong tác phẩm cổ điển Thư Gửi Quận Công Norfolk Nhân Bài Phê Bình Nhận Xét Gần Đây Của Ông Gladstone:

“Lương tâm không phải là lòng vị kỷ nhìn xa, cũng không phải ước muốn nhất quán với chính mình; nhưng là một sứ giả của Đấng, cả trong tự nhiên lẫn trong ơn thánh, nói với chúng ta đàng sau một tấm màn, và dạy cũng như quản trị ta bằng các vị đại diện của Người. Lương tâm là vị đại diện thứ nhất trong tất cả các đại diện của Chúa Kitô” (được trích lại trong GLHTCG s. 1778).

Ở trên, vị Thánh lưu ý đến vai trò ưu tiên của lương tâm “Lương tâm là vị đại diện thứ nhất trong tất cả các đại diện của Chúa Kitô”. Tức là với phán đoán của một lương tâm trong sáng chân thành đi tìm chân lý, thì tiếng nói lương tâm có vị trí ưu thế hơn cả Huấn quyền - cũng là một Đại Diện thế giá của Chúa Kitô. Nơi khác, vị Thánh so sánh cái hiểu Công Giáo trên về lương tâm với cái hiểu thế tục của thời ngài, và cũng là của thời nay, coi lương tâm như “một sáng tạo của con người cách này hay cách khác”. Ngài viết: “Lương tâm là một người giám sát nghiêm nghị, nhưng ở thế kỷ này nó đã bị thay thế bằng một đồ giả hiệu, mà thế kỷ 18 trước nó chưa bao giờ nghe thấy... Nó là quyền của ý chí bản thân… quyền được suy nghĩ, nói năng, viết lách và hành động tùy theo phán đoán của mình hay tính khí của mình, không cần nghĩ gì tới Thiên Chúa… [đến nỗi nó chính là] quyền và tự do của lương tâm vứt bỏ lương tâm”.

Thánh Newman cũng thảo luận điều ta có thể gọi là các cơn cám dỗ của lương tâm:

“[Lương tâm là] thầy dạy cao nhất, nhưng lại ít sáng suốt nhất… [vì] cảm thức đúng sai, vốn là yếu tố đầu tiên trong tôn giáo, là điều… hết sức dễ bị lúng túng, làm cho lu mờ, đồi bại… quá lệch lạc vì kiêu căng và đam mê, quá loạng choạng trong đường đi của nó”.

Lương tâm ấy, trong thập niên 1960 và sau đó thường được các nhà thần học cấp tiến dùng để biện minh cho việc họ bất đồng với giáo huấn Giáo hội. “Lương tâm” cũng còn được dùng để hợp lý hóa việc ngừa thai, thụ thai nhân tạo, phá thai khuyết tật, … trái với giáo huấn của Giáo hội Công Giáo.

Cái thử thách của ngày hôm nay đó là việc nhận biết đúng sai, con người không dễ dàng cùng nhau nhìn nhận chân lý. Để cùng nhau đánh giá đúng sai, phải giả thiết rằng, người nghe và người nói cùng chia sẻ một tiêu chuẩn chung mà dựa vào đó cả hai người có thể đối thoại và phải đồng ý với nhau. Đó là một tiêu chuẩn khách quan mà chúng ta khám phá rakhông phải một tiêu chuẩn mà chúng ta có thể chủ quan tùy ý chế tạoMột xã hội muốn tôn trọng phẩm giá của tất cả mọi người, cần quan tâm đến tiêu chuẩn chung khách quan này để làm bộc lộ cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai vốn có ý nghĩa chung khách quan đối với tất cả chúng ta. Tiêu chuẩn chung đó là sự thật.

3. Sự thật, lương tâm, Đức Kitô, Giáo hội

“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6)

Sự thật là trọng tâm của tình yêu. “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,31–32). Thế nhưng, ngay cả với Đức Giêsu, sự thật không đơn thuần là chủ quan của Người: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình” (Ga 14,10). Chính sự thật này là từ Chúa Cha là điều mà các môn đệ phải học hỏi để hiểu biết. Và điều đó sẽ được thực hiện nhờ Đấng Bảo Trợ, Thần Khí Sự Thật: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Chính Chúa Thánh Thần sẽ bảo đảm cho các môn đệ – tức Giáo hội – được ở trong tình hiệp nhất với Đức Giêsu, Đấng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống,” (Ga 14,6). Chúa Thánh Thần cũng sẽ tiếp tục dạy điều chân thật để giải thoát chúng ta.

Sự thật là điều cốt yếu trong mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa và với tha nhân. Cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và ông Philatô giúp ta hiểu về sự thật. Đức Giêsu nói: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37-38). Philatô rất phân vân: “Sự thật là gì ?” Biết Chúa Giêsu vô tội, ông trở ra ngoài để cố gắng thuyết phục dân chúng tha cho Đức Giêsu. Ông không có được sự can đảm để sống theo sự thật mà ông biết. Ông không dám hành động theo hiểu biết của mình, ông bị nỗi sợ hãi vua Caesar, sợ bị mất chức quyền. Đức Giêsu là người bị trói trong cuộc xét xử, thế nhưng chính Philatô mới là người bị trói buộc[10]. Thế nên, biết sự thật là một chuyện, có đủ can đảm và ý chí để sống theo sự thật lại là một bước quyết liệt khác của đời sống luân lý.

Thiên Chúa đã ban cho chúng ta nhiều phương thế để truy tìm chân lý, tìm kiếm sự thật. Người ban cho chúng ta đức tin và lý trí, và cả hai đều là những tặng phẩm của Người, cả hai đều có giá trị trong cuộc tìm kiếm sự thật, trong hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Dành chỗ quan trọng cho năng lực của lý trí, Giáo hội luôn kiên quyết bảo vệ lý trí của con người. Giáo hội thấy không có mâu thuẫn giữa lý trí và đức tin, mà có mối tương quan trật tự giữa chúng. Cuộc tìm kiếm chân lý của lý trí không sai lầm, nó chỉ đơn thuần là chưa đủ, và chỉ có thể hoàn thành cuộc tìm kiếm đó với hành động của đức tin mà thôi.

Chúng ta càng nhận biết về chính mình bằng lý trí và đức tin, chúng ta càng nhận biết mối tương quan giữa mình với Thiên Chúa. Và chúng ta càng nhận biết mối tương quan ấy, chúng ta càng biết được mình phải sống thế nào. Chúng ta bắt đầu học biết sự thật về cái gì là đúng, cái gì là sai trong những việc chúng ta làm, và kiến thức về sự thật đó thực sự mở rộng sự tự do của chúng ta chứ không phải giới hạn sự tự do ấy. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta để chúng ta thi hành những gì thực sự là đúng, và nhờ đó chúng ta sẽ tìm thấy sự hoàn thiện đích thực của mình.

Tự do đích thực không phải là khả năng tùy ý chọn điều tốt hay điều xấu. Khả năng chọn điều xấu là một sự xuyên tạc tự do. Tự do đích thực là khả năng luôn chọn lựa những gì là tốt đích thực, và chúng ta chỉ có thể làm điều đó khi biết chính xác cái gì là đúng và cái gì là sai. Nhận biết sự thật, và sự thật chắc chắn sẽ giải thoát chúng ta.

Không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa một Giáo hội trao ban tình yêu của Đức Kitô và một Giáo hội rao giảng về chân lý mà Đức Kitô tỏ hiện. Các Kitô hữu, những người nỗ lực đi theo Đức Kitô và sống trong tình yêu của Người, cần phải luôn sẵn sàng để học hỏi về lời chứng vốn đã được Giáo hội cung cấp (Veritatis Splendor, 64). Những khẳng định của Giáo hội không mâu thuẫn với sự tự do của lương tâm, đúng hơn, chúng là một lời khẳng định về những sự thật giúp lương tâm hành động với một sự tự do thực sự[11].

Đức Tổng Giám Mục (TGM) Charles J. Chaput, O.F.M. Cap., của Philadelphia, ngày 15/10/2015, được tờ Famille Chrétienne phỏng vấn. Câu hỏi: “Một số người nghĩ Giáo hội nên để chỗ rộng hơn cho lương tâm bản thân. Việc này sẽ giúp các tín hữu vượt qua được ‘các trở ngại’, người ta nói thế, mà Giáo hội đã tạo ra cho họ về vấn đề kiểm soát sinh sản hay các bí tích (Hòa Giải và Thánh Thể) đối với các cặp ly dị và tái hôn. Đức cha có ý kiến gì?”

Đức TGM Chaput trả lời: “Mỗi người chúng ta có nhiệm vụ phải theo lương tâm của mình. Nhưng lương tâm không hiện hữu trong khoảng không, và nó không phải chỉ là chuyện ý kiến hay ý thích bản thân. Giáo hội không phải là một sự góp nhặt các cá nhân tự lập. Chúng ta là một cộng đồng, một gia đình, được tổ chức quanh con người Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người. Chúng ta có nghĩa vụ phải huấn luyện lương tâm mình trong sự thật. Điều này có nghĩa ta cần để mình được hướng dẫn bởi sự khôn ngoan và giáo huấn của Giáo hội mà Chúa Giêsu đã thiết lập.

Nếu lương tâm tôi bất đồng với sự hướng dẫn của Giáo hội về các vấn đề có thực chất luân lý, thì đây không hẳn là Giáo hội sai. Con người, nghĩa là tất cả chúng ta, đều rất khôn khéo trong việc bào chữa cho những điều ta muốn làm, bất luận điều đó có tội hay không.”

Trong một bài chia sẻ với tổng giáo phận Philadelphia của ngài, TGM Chaput nói thêm rằng các vị tử đạo Anh Quốc thời Henry VIII và Elizabeth I đã không hiến mạng sống mình để bảo vệ “lương tâm bản thân”. Ý niệm này xa lạ đối với họ. Họ chết vì họ hiểu rằng Giáo hội Công Giáo dạy sự thật, và họ không thể từ bỏ Giáo hội hay sự thật do Giáo hội dạy mà không hủy diệt sự chính trực của mình. Vấn đề đối với họ là sự thật - chứ không phải sự ngoan cố - sự thật của Thiên Chúa, một sự thật vừa ràng buộc vừa giải thoát mọi người, ở mọi nơi; chứ không phải ý niệm hiện đại về trí năng của cá nhân tạo ra lối giải thích của riêng mình về đúng sai[12].

4. Đối với Huấn quyền

Công đồng Vatican II xác định rõ các quyền hành và những giới hạn của Huấn quyền. Một mặt, Hiến chế Dei Verbum nói rằng dĩ nhiên “trách nhiệm giải thích Lời Chúa một cách chính thức, Lời viết cũng như Lời truyền, đã được ủy thác cho chỉ một mình Huấn quyền sống động trong Giáo hội mà thôi”; tuy nhiên Hiến Chế nhắc nhở “Huấn quyền này không thắng thế trên Lời Chúa; nó phục vụ Lời Chúa bằng cách chuyên lo giảng dạy chỉ những gì đã được truyền thụ mà thôi, vì thừa lệnh Chúa và nhờ Thánh Thần trợ giúp, Huấn quyền thành kính lắng nghe Lời Chúa” (DV s. 10). Như thế, Huấn quyền cần phải biết mở rộng ra để đón nhận Thánh Thần hầu phục vụ Ngôi Lời là Đấng làm cho hoạt động Huấn quyền tồn tại (1Cr 1, 17). Chắc chắn “Kinh Thánh, Truyền Thống và Huấn quyền… liên kết và phối hợp với nhau đến nỗi không thực thể nào trong ba, có thể đứng vững một mình được” (DV 10)

Để cho Huấn quyền “tiến bước theo Thánh Thần” (Ga 5, 16), các vị mục tử cần tìm những phương thức chắc chắn nhất của khoa chú giải phê bình mà chất vấn Kinh Thánh, là quy phạm của đức tin, cũng như hãy biết dựa theo những đóng góp theo chủ đề của khoa học hiện đại mà đọc lại Truyền Thống. Huấn quyền cần phải biết lắng nghe Lời Chúa bằng cách chú tâm để ý đến các dấu chỉ của Thánh Thần, Đấng hằng không ngừng hoạt động ở giữa Dân Chúa; có như thế thì mới nhận ra được “cảm thức đức tin” của Dân Chúa. Công đồng Vatican II nói rằng: “Bởi đã được Thánh Linh xức dầu, cho nên xét theo toàn bộ, toàn thể các tín hữu không thể nào sai lầm trong đức tin được; và họ biểu lộ đặc tính ấy qua cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể Dân Chúa, khi ‘từ các giám mục cho tới người giáo dân rốt nhất’ đều đồng ý về những điểm liên quan đến đức tin và phong hóa” (GH 12). Công đồng Vatican II cho thấy là Huấn quyền cần phải chú ý rất nhiều đến cách thức toàn bộ các kitô hữu đón nhận một giáo thuyết[13].

Phải nhìn nhận là, đặc biệt trong xã hội đa nguyên và thế tục hóa hiện nay, rất nhiều khi các vị chủ chăn buộc phải chống lại những gì được đại đa số tán đồng; đó là phận vụ của “người tuần canh”. Tuy nhiên, theo quy tắc chung, phải nhận rằng nếu không được toàn bộ hay một số lớn các giáo hội địa phương đón nhận, thì các quy phạm do Huấn quyền đưa ra, rất có thể là không hoàn toàn phù hợp với diện mạo của Mạc khải, hay ít ra, cần phải được trình bày cho tinh vi hơn sau khi đã nghiên cứu kỹ lưỡng hơn về mặt thần học[14].

Huấn quyền có liên hệ mật thiết với kinh nghiệm đời sống luân lý trong các giáo hội địa phương. Nghĩa là, chỉ ở trong một bầu khí đối thoại đầy tin tưởng giữa hàng giáo phẩm và các thành phần khác của Dân Chúa, thì Huấn quyền mới không bỏ sót tiếng nói của Chúa Thánh Thần, và có thể thực thi trách nhiệm giảng dạy luân lý một cách khả tín. Xavier Thévenot, SDB, giáo sư thần học luân lý tại Institut Catholique de Paris, và là chuyên gia về luân lý giới tính phác thảo một số điều kiện cần thiết cho một đối thoại như thế.

5. Điều kiện cần có cho cuộc đối thoại giữa Huấn quyền và Lương Tâm các tín hữu

Về phía Huấn quyền

Hàng giáo phẩm phải vượt lên trên những nét khác biệt không thể tránh khỏi được về mặt văn hóa, để có thể nhận chân những đường hướng căn bản của nỗ lực tìm kiếm trong lãnh vực luân lý nơi các giáo hội địa phương. Làm như thế mới tránh khỏi được khuynh hướng đánh giá quá cao một trường phái thần học nào đó, để rồi không còn lưu ý tới các trường phái khác cho đầy đủ. Nhờ thế, sức sáng tạo thần học trong các giáo hội ngoài châu Âu đã bắt đầu gây được ảnh hưởng theo một chiều hướng tốt đẹp[15].

Đối với Huấn quyền, không phải là chuyện dễ để có thể cởi bỏ những điều kiện ràng buộc của lịch sử và văn hóa, mà chú ý lắng nghe một lối diễn đạt thần học phát sinh từ một kinh nghiệm xã hội và Kitô tận gốc rễ khác hẳn với kinh nghiệm của giáo hội bên Tây Phương, chẳng hạn phong trào thần học giải phóng. Cái khác biệt bao giờ cũng làm cho người khác lúng túng.

Điều đó đúng đối với cái khác biệt văn hóa, nhưng cũng còn đúng đối với cả cái khác biệt do những phát minh khoa học đem tới nữa: đặc biệt là những phát minh có sức mở ra nhiều môi trường hoạt động rộng lớn và hoàn toàn mới mẻ đối với lịch sử loài người. Chẳng hạn, có thể kể những xáo trộn xảy ra tiếp theo sau các phát minh về y sinh học đưa đến chỗ tách biệt ba chức năng khác nhau của giới tính: chức năng tương quan (fonction relationnelle), chức năng hứng dục (fonction érotique) và chức năng sinh sản (fonction procréatrice) (như trong ngừa thai nhân tạo, thụ thai nhân tạo)

Đó là cả những lãnh vực rộng lớn của kinh nghiệm con người thời đại chúng ta, thế nên nhiều khi không còn đủ cho tín hữu nếu Huấn quyền chỉ một mực trực tiếp dựa theo kho tàng khôn ngoan của Truyền Thống hay lặp đi lặp lại những câu giải đáp quy phạm cổ xưa của quá khứ được nữa, vì chúng không còn đủ sức để soi sáng cho những lối xử sự hiện nay[16].

Lịch sử cho thấy đôi khi Huấn quyền có sai lầm như chế độ chủ nô-nô lệ, quan niệm về vai trò người nữ, kết án Galileo…Thế nên, khi nhận thấy rằng một văn kiện nào đó của mình đã rõ ràng là không được đại đa số Dân Chúa “đón nhận” trong tinh thần vâng phục, thì Huấn quyền sẽ cần phải yêu cầu các tín hữu ấy, đặc biệt là các thần học gia uy tín, lấy tinh thần hiệp thông với Giáo hội mà trình bày các lý lẽ làm cho họ không đồng ý như thế, một cách tự do, không chút lo sợ đối với bất cứ một hình thức chế tài nào. Như thể là một bằng chứng cho toàn dân Kitô giáo cũng như cho các người không Kitô thấy rõ về niềm tự do của những ai biết thực thi Tin Mừng và tình bác ái hằng “mừng vui khi gặp thấy sự thật” (1Cr 13, 6).

Về phía Dân Chúa

Nên lưu ý là để có được một cuộc đối thoại chân chính với Huấn quyền, thì cần phải cởi bỏ thái độ nghi kỵ tiên thiên, cho rằng “những người nắm giữ trọng trách trong Giáo hội đều sống quá xa cách với quần chúng để còn có thể có một tiếng nói bổ ích trong lãnh vực luân lý”. Hơn nữa, các tín hữu cần phải xác tín trở lại hoặc là phải xác tín mạnh mẽ hơn nữa đối với chân lý này là Thánh Thần hằng hỗ trợ một cách đặc biệt những người kế vị các tông đồ trong sứ mệnh làm “người công bố đức tin và làm Thầy dạy chính thức”. Trong đời sống luân lý, có một cám dỗ thường xuyên rình rập, đó là cá nhân khép kín mình lại.

Trong khi đó, Huấn quyền có thể đưa lại cho tín hữu một cơ may quý giá: để cho người khác bứng mình ra khỏi cái thế cố hữu của mình. Thật vậy, vì phải chăm sóc cho toàn thể Giáo hội, nên Huấn quyền ở vị thế thuận lợi để phát hiện ở giữa các quan điểm luân lý nơi một vài Giáo hội và một số nền văn hóa, những ý thức hệ đặt nền móng trên chủ trương phủ nhận những gì là phổ cập, tức là gạt bỏ Tha Vị đi. Thế nên, lời dạy, lời mời gọi và nhắc nhở của Huấn quyền phải được các kitô hữu đón nhận trước hết với tinh thần vâng phục, con thảo, tin tưởng, lắng nghe, tùy theo sức ràng buộc của mỗi loại văn kiện. Mỗi văn bản của Huấn quyền có thể gây xáo trộn những thói quen, vạch trần những vị kỷ hẹp hòi, buộc chúng ta phải tổ chức lại cho rộng thoáng hơn khoảng không gian thuộc quyền sở hữu của chúng ta, và cuối cùng, thúc bách chúng ta đi đến hoán cải, đối thoại. Đối với người tín hữu, đón nhận lời của Huấn quyền không có nghĩa là trút bỏ trách nhiệm của mình đi, cũng như không có nghĩa là vâng phục một cách thụ động, nhưng là chuyển động để tiến tới trong niềm trung tín đối với Lời Chúa[17].

Liên quan đến bài viết này, tập trung vấn đề luân lý, khi dùng đến một văn bản của Huấn quyền cho thích đáng không có nghĩa là chỉ lo xác định cho đúng tầm quan yếu của nó về mặt thần học; mà còn phải biết phân biệt ở trong nó, những gì thuộc chiều kích phổ quát của luân lý, các nguyên tắc chung, với những gì thuộc chiều kích riêng biệt, các áp dụng cụ thể. Như Thánh Tôma cũng nhiều lần nhắc nhở, qua một văn kiện, Huấn quyền dùng trọn uy thế của mình để đảm bảo kinh nghiệm mình có về Lời Chúa, ban bố những quy tắc rõ ràng, mong nhờ đó mà diễn đạt được nỗ lực thăm dò những gì là phổ quát hằng tiềm ẩn ở nơi mọi cố gắng tìm kiếm trong lãnh vực luân lý. Đàng khác, Huấn quyền cần ý thức rằng khi phải áp dụng các nguyên tắc kia vào trong cuộc sống cụ thể, thì mình bị lệ thuộc rất nhiều vào cách thức mình phân tích các dữ kiện chính trị, xã hội và hoàn cảnh cá nhân. Vì thế, khi đón nhận những huấn lệnh cụ thể của Huấn quyền - các Kitô hữu có bổn phận phải lấy hết lòng nghiêm chỉnh mà lắng nghe, nhưng cũng có thể xảy ra là họ không đồng ý với chúng, hoặc họ không thể áp dụng trong hoàn cảnh đặc thù của mình. Đây là một vấn đề rất tế nhị của lương tâm[18].

Với Tông huấn Amoris Laetitia (AL), Đức thánh cha Phanxicô đã trao cho tất cả các gia đình một món quà đặc biệt. Đức Hồng Y Baldisseri nhận xét đúng đắn rằng Tông huấn đã được đưa ra đúng thời điểm cơ chế gia đình đang trải qua cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong lịch sử[19]. Đức Phanxicô nhắc nhở các mục tử cần sự khiêm tốn của óc thực tế cứu xét hôn nhân trong thực chất của nó, nghĩa là “một tiến trình năng động tăng trưởng và thành đạt”. Đức thánh cha nhấn mạnh rằng cần dành chỗ cho việc huấn luyện lương tâm các tín hữu: “Chúng ta được kêu gọi huấn luyện lương tâm, và đừng chủ trương thay thế lương tâm” (AL s. 37). Theo Đức thánh cha, Chúa Giêsu đã đề nghị một lý tưởng yêu sách nhưng “Người không bao giờ đánh mất sự gần gũi cảm thương với những người yếu đuối như người phụ nữ xứ Samaria hoặc người phụ nữ ngoại tình” (AL s. 38).

Lương tâm phân định với sự chân thành và trung thực những gì, trong lúc này, là sự đáp trả quảng đại có thể được dâng lên Thiên Chúa, và khám phá, với một sự chắc chắn luân lý, đâu là sự dấn thân mà Thiên Chúa đang kêu gọi ở giữa sự phức tạp cụ thể của hoàn cảnh hiện thực. Các mục tử biết rằng sự phân định này là rất năng động và phải luôn mở ra cho các khả năng tăng triển mới trong tiến trình đời sống Kitô hữu, và cho các quyết định mới mẻ cho phép thực hiện đòi hỏi của Luật cách đầy đủ nhất.

Huấn quyền của Đức Phanxicô dẫn chúng ta đến chỗ tái khám phá tầm quan trọng của lương tâm cá nhân trong đời sống cá nhân Kitô hữu và trong đời sống Giáo hội. Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: “Càng dành ưu tiên cho lương tâm ngay thẳng, thì cá nhân và cộng đoàn càng tránh được những chọn lựa mù quáng, và càng nỗ lực tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của luân lý” (GS s. 16).

6. Đối thoại trong thực hành luân lý

Một trong những mục tiêu quan trọng mà Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới về gia đình họp tại Roma vào tháng 10/1980 nhắm tới, là làm sao xóa bỏ được sự cách biệt giữa giáo thuyết và thực tại, vì sự cách biệt này vừa gây đau khổ cho nhiều người vừa làm cho giáo huấn luân lý của Giáo hội bị suy giảm tính khả tín. Vì thế các nghị phụ đã đi tới chỗ xác định sự hiện hữu cần thiết của Luật tiệm tiến (La loi de gradualité).

Luật tiệm tiến là gì? Đó là luật quan tâm đến những giới hạn của con người: là những con người sống trong lịch sử, yếu đuối và ảnh hưởng bởi tội lỗi, cùng lúc phải chu toàn nhiều trách nhiệm! Điều đó có nghĩa rằng ta không thể đòi hỏi người tín hữu áp dụng tất cả luật luân lý, hoàn toàn và ngay lập tức, nhưng cần phải kiên nhẫn giúp họ tiến tới trên con đường tăng trưởng, từng bước trong thời gian[20].

Luật này nhìn nhận rằng sự hoán cải đòi hỏi thời gian. Đứng trước một quy luật chưa thể áp dụng ngay được trong lúc này, hoàn cảnh này, con người này, vì có một số giá trị khác cũng bị đe dọa, thì nhiều khi người ta có thể chấp nhận một thời hạn nào đó với một số điều kiện[21]. Chú ý hai điều được đòi hỏi mỗi người ở đây: a/ nhìn nhận quy luật và chấp nhận như luật dạy; b/ chân thành cố gắng thiết lập những điều kiện để tuân giữ.

Trật tự luân lý, xét cho cùng, bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa. Trật tự này phục vụ sự phát triển toàn vẹn nhân tính của mỗi người. Đoạn số 34 của Tông Huấn Familiaris Consortio của Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II xác định rõ ràng điều vừa nêu trên đây là một “tiến trình tăng trưởng có tính chất sư phạm”: “Con người... là một hữu thể ở trong lịch sử. Ngày qua ngày con người tự xây dựng bản thân bằng nhiều chọn lựa tự do. Vì thế, con người nhận thức, yêu thương và làm sự thiện theo các giai đoạn tăng trưởng của mình” (FC, s. 34,3). Ở đây Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nói đến một yếu tố quan trọng: con người là một hữu thể lịch sử. Nghĩa là, ngài muốn nói rằng không phải một sớm một chiều mà con người đạt đến sự trưởng thành viên mãn về luân lý. Con người chỉ từ từ đạt tới mức hoàn hảo đó.

Nhờ Luật tiệm tiến, thần học luân lý đang nhìn nhận rằng tính luân lý hành vi không phải chỉ có trắng hoặc đen mà thôi, nhưng giữa trắng và đen còn có xám nữa. Dĩ nhiên xám chưa phải là trắng, nhưng nó cũng không hẳn là đen, và không thể bị coi là đen! Tuy nhiên cũng phải nhấn mạnh lại rằng nếu không phải bao giờ cũng đòi buộc phải áp dụng tức khắc và trọn vẹn quy luật, thì bao giờ cũng buộc phải lo hướng tới tìm cách áp dụng trọn vẹn quy luật đó. Sự hướng tới này phải có tính chất thực sự và sinh động, nghĩa là nó có mục đích giúp chúng ta mở rộng thực hiện càng sớm càng tốt giá trị mà quy luật bảo vệ[22].

VII. TÓM TẮT VÀI ĐIỀU THỰC TIỄN[23]

1. Như vậy tôi phải làm thế nào khi lương tâm tôi nói một điều mà Giáo hội lại dạy tôi một điều khác?

Trước hết, thông thường chúng ta buộc phải tuân theo giáo huấn Giáo hội. Nếu Giáo hội dạy một điều mà chúng ta tin tưởng vào điều khác, chúng ta buộc phải tìm hiểu để biết được thấu đáo thực sự điều Giáo hội dạy là gì và chúng ta có còn cơ sở để không đồng ý nữa không. Và chúng ta có bổn phận tìm biết rõ chính xác điều chúng ta không đồng ý là gì và vấn đề đó nghiêm trọng như thế nào, và phối hợp biện biệt tại sao chúng ta tin rằng cách thức chúng ta hành động yêu Chúa, yêu tha nhân là bắt buộc hơn điều Giáo hội dạy. Trong suốt quá trình, luôn luôn chúng ta phải giữ thái độ và lòng tôn trọng sâu xa giáo huấn Giáo hội và chúng ta phải tránh gây tai tiếng cho những người khác.

2. Như vậy tôi có tự do chống lại lương tâm tôi không?

Không bao giờ, Tôma Aquinô dạy rằng nếu chúng ta chống lại lương tâm chúng ta, chúng ta tự động phạm tội bởi vì chúng ta chống lại tiếng nói của Thiên Chúa.

3. Nhưng chỉ bởi vì tôi theo lương tâm tôi, điều này không có nghĩa là tôi đúng, phải không?

Không nhất thiết phải như thế. Để đạt được điều đúng, chúng ta phải hiểu hoàn cảnh, điều kiện, tìm phương tiện đúng, và đoán trước hậu quả. Nếu chúng ta bỏ sót một hoàn cảnh hoặc điều kiện, hoặc chọn sai phương tiện, chúng ta sai. Nhưng lương tâm là tất cả những gì chúng ta có và vì vậy chúng ta phải học thường xuyên qua kinh nghiệm từ những lỗi lầm của chúng ta và cả từ những thành công của chúng ta nữa. Rèn luyện lương tâm là một quá trình suốt đời.

4. Nếu bạn theo lương tâm, và bạn sai, bạn có tội không?

Không, chúng ta phạm tội khi nào chúng ta không phấn đấu để hành động đúng. Bất cứ khi nào chúng ta phấn đấu để hành động đúng phát xuất từ tình yêu, chúng ta hành động theo lương tâm. Bất cứ khi nào chúng ta thất bại để phấn đấu thực hiện điều đúng, (như là người tư tế và Lêvi trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu), chúng ta phạm tội. Tội là, theo như Chúa Giêsu dạy, thất bại không yêu. Và yêu là phấn đấu tìm điều đúng. Phấn đấu tìm điều đúng, tuy nhiên, không bảo đảm rằng chúng ta sẽ đúng.

Nếu tội là thất bại không phấn đấu đáp lại lời mời gọi hay ân sủng của Thiên Chúa trong cụ thể, chúng ta nên phân biệt giữa phạm tội và làm điều gì sai trái. Một mặt, chúng ta phạm tội khi chúng ta không phấn đấu đáp ứng lại nhu cầu thiết yếu của tha nhân hay khi chúng ta không cố gắng vượt qua những tật xấu của chúng ta. Mặt khác, có nhiều lần khi chúng ta cố gắng làm điều đúng nhưng lại sai, hoặc khi chúng ta cố gắng tránh điều sai nhưng lại thất bại. Chúng ta hối tiếc những hành vi sai trái hay lỗi lầm này, nhưng chúng không phải là tội, chúng là những lỗi lầm.

5. Ta có thể nói rằng Adolph Hitler đã theo lương tâm của ông ấy và như vậy ông ta đã không phạm tội không?

Đó thật là phi lý. Lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa. Như vậy tiếng nói đó đòi hỏi chúng ta học hỏi hơn nữa, để hiểu những nhu cầu của chúng ta và của người khác, và tìm tòi những cách thức để làm cho cuộc sống của dân chúng trong đó có chúng ta được tốt hơn. Có thể nào chúng ta tin được rằng Hitler đã phấn đấu và tìm tòi những cách thức này? Lương tâm ra lệnh ý muốn phải mở ra với Thiên Chúa và tha nhân. Khi chúng ta không mở ra, đó là dấu hiệu rõ ràng chúng ta không thực hành lương tâm, cũng không phấn đấu để yêu.

Kết

Như Thánh Tôma Aquinô đã nói, con người xuất phát từ Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa. Vậy mục đích tối hậu của đời người là sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Thần Học Luân Lý là để giúp con người đạt đến mục đích tối hậu của đời người. Đời sống đức tin và luân lý của người Kitô hữu không tách rời mà hòa quyện với nhau thành câu chuyện lịch sử ơn cứu độ riêng cho người ấy. Hay nói cách khác, sống đức tin là cùng với Chúa viết nên câu chuyện riêng của đời mình trong thực thi luân lý hàng ngày, trong cuộc sống chung với tha nhân, với vũ trụ. Huấn quyền với Luật Giáo hội và Luật Thiên Chúa như vị Thầy dạy uy quyền đầy lòng thương xót, đại diện uy tín và thế giá của Chúa Kitô, chỉ cho mọi người con đường đúng đắn để đi đến gặp Chúa. Lương tâm mỗi người sẽ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để chọn lựa các phương thế thích hợp với người ấy để đi trên con đường đó. Trên con đường này, có người đi thẳng, có người giữa đường gặp chướng ngại phải vòng qua một khúc quanh, có người đi máy bay, có người dùng đường thủy, có người lại đi đường bộ với xe hơi, xe máy hay xe đạp, thậm chí đi bộ, có người bước đi với đôi chân lành lặn, có người khập khiễng một chân... Và như thế, với lương tâm trong sáng chân thực được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần, mỗi người sẽ viết nên câu chuyện lữ hành của đời mình, rất riêng và độc đáo dưới con mắt Chúa và tha nhân.

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 120 (Tháng 9 & 10 năm 2020)

Nguồn: hdgmvietnam.com/

Bài viết khác

Liên kết

Tin tức